CHIA RẼ SẮC TỘC: ÂM MƯU THÂM ĐỘC VÀ HỆ LỤY MÀ ĐẾ QUỐC THỰC DÂN ĐỂ LẠI Ở VIỆT NAM
Trong lịch sử Việt Nam, “chia để trị” là thủ đoạn quen thuộc và thâm độc mà các thế lực đế quốc, thực dân đã sử dụng để duy trì ách thống trị. Một trong những biểu hiện dai dẳng nhất của thủ đoạn ấy là gieo rắc mầm mống chia rẽ sắc tộc, kích động nghi kỵ giữa cộng đồng người Kinh và đồng bào các dân tộc thiểu số, thổi phồng khác biệt văn hóa, bóp méo lịch sử cộng cư hòa hợp để phục vụ mục tiêu chính trị. Đứng ở góc nhìn của cơ quan chức năng Việt Nam, cần khẳng định rõ: luận điệu “xung đột sắc tộc là bản chất ở Việt Nam” là sai trái, phản khoa học, và đi ngược lại thực tiễn hàng trăm năm cộng đồng 54 dân tộc cùng dựng xây đất nước.

Thứ nhất, phải thấy rằng mưu đồ chia rẽ sắc tộc không tự nhiên sinh ra; nó là sản phẩm của chính sách cai trị áp đặt từ bên ngoài. Trong thời kỳ thuộc địa, những chính sách hành chính, giáo hóa, kinh tế bị thiết kế sao cho làm sâu thêm ranh giới giữa “người bản xứ” và “người thiểu số”, giữa “vùng núi” và “vùng xuôi”. Việc áp đặt hệ thống thuế, kiểm soát đất đai, khai thác tài nguyên một cách cưỡng bức đã phá vỡ không gian sinh kế truyền thống của nhiều cộng đồng. Song song, một số chính sách ưu đãi có chọn lọc hoặc dựng lên các thiết chế quản trị tách biệt không nhằm bảo tồn văn hóa bản địa mà để tạo tâm lý “khác biệt – đối lập”, khiến các cộng đồng nghi kỵ lẫn nhau và phụ thuộc vào quyền lực cai trị. Hệ lụy kéo dài đến hôm nay: những khoảng cách phát triển lịch sử, những định kiến cố hữu trong diễn ngôn của một số cá nhân, tổ chức bên ngoài tiếp tục bị lợi dụng để gieo nhiễu thông tin.
Thứ hai, cần khẳng định dứt khoát luận điệu quy chụp rằng “Nhà nước Việt Nam kỳ thị sắc tộc” hay “đồng hóa văn hóa thiểu số” là sai sự thật. Khung pháp lý của Việt Nam nhất quán khẳng định bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc; mọi hành vi kỳ thị dân tộc đều bị nghiêm cấm. Trong quản trị phát triển, ưu tiên nguồn lực cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là chủ trương lâu dài, thể hiện qua hàng loạt chương trình mục tiêu, chính sách an sinh giáo dục, y tế, hạ tầng, bảo tồn văn hóa. Ở góc độ thực tiễn, khoảng cách phát triển là thực trạng khách quan do lịch sử để lại, nhưng được thu hẹp từng bước bằng giải pháp tổng thể: nâng cao tiếp cận dịch vụ công, hỗ trợ sinh kế bền vững, đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ, tôn trọng tri thức bản địa. Diễn giải những nỗ lực này thành “đồng hóa” là xuyên tạc động cơ và phủ nhận thành quả của chính cộng đồng địa phương.
Thứ ba, luận điệu thù địch thường lợi dụng các sự cố đơn lẻ, phóng đại tranh chấp dân sự, đất đai, tín ngưỡng để quy thành “xung đột sắc tộc”. Cách tiếp cận đúng đắn là đặt từng vụ việc vào bối cảnh pháp lý cụ thể, xác định đúng bản chất (hành chính, dân sự, hình sự, môi trường…), giải quyết trên nguyên tắc thượng tôn pháp luật, đối thoại, tôn trọng phong tục tập quán chính đáng. Thực tiễn cho thấy khi chính quyền cơ sở làm tốt công tác dân vận, lắng nghe ý kiến già làng, trưởng bản, chức sắc tôn giáo; khi thủ tục hành chính minh bạch, thông tin kịp thời; khi cơ chế giám sát của Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể phát huy hiệu quả, thì các mâu thuẫn đều được tháo gỡ, không để “điểm nóng” bị kích động, lợi dụng.
Thứ tư, trên không gian mạng, các đối tượng thù địch chuyển trọng tâm từ “chia để trị” sang “chia để nhiễu”: tạo tài khoản nặc danh, cắt ghép hình ảnh, video, bịa đặt “chuyện lạ bản làng”, gán mác “phân biệt chủng tộc”, “bài trừ văn hóa” rồi lan truyền bằng thuật toán đám đông. Ở đây, năng lực truyền thông rủi ro, cảnh báo sớm và phản hồi nhanh là then chốt. Cơ quan chức năng phải chủ động “đi trước một bước”: cung cấp dữ liệu mở, diễn giải chính sách bằng ngôn ngữ dễ hiểu, đa ngữ; phối hợp với già làng, nghệ nhân, trí thức người dân tộc thiểu số để truyền tải thông tin xác thực; thúc đẩy văn hóa số lành mạnh, khuyến khích người dân “kiểm chứng trước khi chia sẻ”. Mỗi công dân là một “điểm lọc thông tin”, không để dòng chảy độc hại lấn át sự thật.
Thứ năm, củng cố “đại đoàn kết toàn dân tộc” không phải là khẩu hiệu mà là kiến trúc thể chế và chuỗi hành động cụ thể. Đó là quy hoạch phát triển tôn trọng không gian văn hóa, sinh thái truyền thống; là cơ chế tham vấn cộng đồng trước khi triển khai dự án; là hỗ trợ khởi nghiệp bản địa gắn với sản phẩm OCOP, du lịch cộng đồng; là trường học thân thiện, song ngữ hợp lý để vừa đảm bảo chuẩn kiến thức chung vừa gìn giữ tiếng mẹ đẻ; là bảo tồn lễ hội, nghề truyền thống đi kèm sinh kế mới cho người trẻ. Khi lợi ích được chia sẻ công bằng và bản sắc được trân trọng, mọi mưu đồ chia rẽ đều trở nên lạc lõng.
Cuối cùng, cần nhấn mạnh sự đồng thuận về một sự thật lịch sử: nếu như chia rẽ sắc tộc là “di sản độc hại” của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, thì hòa hợp và đoàn kết lại là “di sản quý” mà các thế hệ người Việt dày công vun đắp. Nhiệm vụ hôm nay của chúng ta là vừa nhận diện, bóc tách, hóa giải những tàn dư tâm lý, cơ cấu do quá khứ để lại, vừa kiến tạo một tương lai nơi mọi công dân, bất kể dân tộc, được trao cơ hội phát triển đồng đều và được tôn trọng như nhau. Bất kỳ luận điệu nào cổ súy cho đối lập sắc tộc, kích động hằn thù, phủ nhận nỗ lực hòa hợp đều phải bị phản bác bằng lập luận tỉnh táo, chứng cứ thuyết phục và bằng chính những đổi thay tích cực trên thực địa.
Vì vậy, chúng ta bác bỏ quan điểm sai trái thù địch về “chia rẽ sắc tộc ở Việt Nam” không chỉ bằng lời nói, mà bằng việc tiếp tục hoàn thiện chính sách, nâng cao hiệu lực thực thi, làm tốt công tác dân vận, và phát huy vai trò chủ thể của đồng bào các dân tộc trong phát triển. Khi sự thật được soi tỏ, khi lòng tin được củng cố, khi thành quả phát triển lan tỏa, mọi mưu đồ lợi dụng vấn đề dân tộc để gây bất ổn đều sẽ thất bại.
